Thứ Ba, 30 tháng 4, 2013

Sơn La - những nẻo đường biên ải - P26

Thùng đựng ăng ten vệ tinh đã mục nát.



Thùng đựng thiết bị phát điện cho trạm y tế xã, công suất 400W.



Phía dưới là thùng đựng ắc quy.

 

Thùng đựng máy phát cho trụ sở Ủy ban xã, công suất 600W



Tủ lạnh đựng vắc xin, công suất 200W.



Thùng đựng thiết bị vệ tinh, để trần trụi, bạc phếch vì nắng mưa, khóa cũng không có.



Thiết bị bên trong thùng



Rất tinh vi và đắt tiền.



Bộ thu tín hiệu.



Bộ biến tần của hãng Studer, Thụy Sỹ chắc chắn cực đắt.

 

Và đây là giá trị còn lại của đống thiết bị trị giá gần 3 tỷ đồng này.



Đến dây cáp, thanh tiếp địa cũng được nhập khẩu từ Phần Lan.



Thùng đựng tấm pin mặt trời đã mọc rêu xanh lè.



Biểu tượng hàng phải chống mưa, nước. Không được che chắn bảo vệ, lô hàng này đương nhiên sẽ hỏng và không được bảo hành.

 

Đây mới chỉ là hiện trạng của 1 trong 70 xã có thực hiện trong dự án này, liệu còn bao nhiêu xã nữa cũng có tình trạng tương tự như Háng Đồng?

Đối với vùng miền núi phía Bắc, danh sách các xã thực hiện dự án bao gồm:

TỈNH SƠN LA
II Huyện Bắc Yên
44 Háng Đồng
45 Hua Nhàn
III Huyện Mộc Châu
46 Tân Xuân
47 Chiềng Xuân
IV Huyện Mai Sơn
48 Chiềng Nơi

TỈNH CAO BẰNG
V Huyện Bảo Lạc
49 Sơn Lập
50 Hưng Thịnh
51 Kim Cúc
VI Huyện Bảo Lâm
52 Mông Ân
53 Nam Cao
54 Thái Sơn
VII Huyện Thông Nông
55 Cần Nông

TỈNH LAI CHÂU
VIII Huyện Mường Tè
56 Hua Bum
57 Pa Vệ Sử
58 Pa Ủ
59 Ka Lăng
60 Tà Tổng
IX Huyện Sìn Hồ
61 Pú Đao
X Huyện Than Uyên
62 Pha Mu
63 Tà Hừa

TỈNH ĐIỆN BIÊN
XI Huyện Mường Nhé
64 Na Cô Sa
65 Pá Mỳ
66 Sen Thượng
67 Leng Su Sin
68 Nậm Vì
69 Sín Thầu
70 Nà Bủng

Trong các xã nêu trên thì gần đây tôi có đi qua Ka Lăng, Pa Vệ Sử, Pa Ủ, Tà Tổng thì chỉ thấy duy nhất ở Tà Tổng có lắp đặt tấm pin năng lượng mặt trời nhưng cũng không thấy có trạm thu phát sóng truyền hình, không biết các hạng mục khác có được lắp đặt đầy đủ hay không?



Hay có lẽ là do các xã này, họ đã kéo được điện vào và giải pháp dùng thiết bị thu sóng vệ tinh rồi phát lại là không hợp lý vì so với việc mua thiết bị thu sóng trực tiếp tín hiệu từ vệ tinh rất rẻ mà chất lượng lại tốt và không bị ảnh hưởng bởi địa hình rừng núi. 

Vấn đề nợ công đang là vấn đề rất nóng trên báo chí Việt Nam mấy tuần vừa qua.

Dẫn tính toán của chuyên gia Liên Hiệp Quốc, trao đổi với báo Tuổi Trẻ bên lề hội thảo, TS Nguyễn Trọng Hậu, Đại học Almamer, Ba Lan, cho biết nếu theo chuẩn quốc tế thì nợ công VN lên đến khoảng 128 tỉ USD, bằng khoảng 106% GDP năm 2011 - gần gấp đôi mức VN công bố chính thức.

TS Lưu Bích Hồ, nguyên viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược (Bộ Kế hoạch - đầu tư), cũng đồng tình và chỉ ra rằng năm 2011, ước tính theo quốc tế thì nợ công của VN là 128,9 tỉ USD, tương đương 106% GDP. Nhưng con số mà Bộ Tài chính công bố chỉ 66,8 tỉ USD và bằng 55% GDP.



Nợ công của Việt Nam thì ngày càng tăng, trong đó góp phần lớn nhất có lẽ là vốn vay ODA cho các dự án của Chính Phủ. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng vốn vay thì rất thấp và nhiều dự án vô cùng lãng phí như dự án điện mặt trời này.

Tôi đã trao đổi với nhiều nhà chuyên môn về điện mặt trời thì ai cũng đồng tình là việc khai thác điện mặt trời ở các tỉnh miền Bắc nói chung và miền núi cao phía Bắc nói riêng là không có hiệu quả. Miền Bắc có mùa đông kéo dài, hoàn toàn không có nắng, ngay cả trong mùa hè cũng không phải là ngày nào cũng có nắng, kể cả trong một ngày thì tại các vùng núi cao, thời gian có nắng không nhiều, hơn nữa đa số các khu vực dân cư tập trung đều nằm bên sườn núi hoặc dưới thung lũng nên mặt trời sớm bị che khuất bởi các dãy núi nên lượng ánh sáng không thể đủ để xạc đầy liên tục các bình ắc quy.

Các thiết bị công nghệ cao của trạm phát điện mặt trời rất nhậy cảm với độ ẩm, cần được bảo quản và bảo trì rất tốt thì mới có thể hoạt động được trong khi thời tiết của các vùng núi phía Bắc vô cùng khắc nghiệt, độ ẩm cao, nhiệt độ thay đổi thất thường sẽ nhanh chóng làm hỏng thiết bị.

Với các sản phẩm công nghệ cao này đòi hỏi phải có người trình độ chuyên môn cao để vận hành và bảo trì, sửa chữa, phải có linh kiện, thiết bị thay thế dự phòng trong khi điều đó là không thể tại những nơi vùng sâu, vùng xa như Háng Đồng này được.

Chi phí để mua các thiết bị năng lượng mặt trời này và linh kiện để thay thế là rất đắt, hoàn toàn không hiệu quả so với các giải pháp truyền thống như thủy điện mini hay thậm chí là máy phát điện chạy dầu diezen. Vậy mà dự án vẫn được duyệt, vẫn vay vốn ODA của nước ngoài để đầu tư rồi vứt xó cho hư hỏng trong khi những nơi đó đang thiếu thốn đủ mọi thứ.

Đây là một thực tế vô cùng đau xót mà bất cứ ai nhìn thấy cũng đều cảm thấy phẫn nộ và bức xúc.

7.920.739 EUR tương đương 197.273.931.255 VNĐ trong đó vốn vay là 5.385.580 EUR tương đương 134.133.255.480 VNĐ, vốn đối ứng từ ngân sách nhà nước là 2.535.159 EUR tương đương 63.140.670.880 VNĐ kết quả là như thế này đây. 

Trời cũng đã về chiều muộn, hai thằng tôi đành tạm biệt các giáo viên trường tiểu học Háng Đồng và các bạn Hà Nội lên khảo sát làm chương trình từ thiện cho Háng Đồng để lên đường về Hà Nội cho sớm.

Hẹn sẽ có ngày quay lại Háng Đồng.



Chúc các bạn tôi may mắn.



Xuống núi nào.



Đến lúc này, chỉ phải đi xuống dốc, tôi mới dám bỏ một tay ra để vừa đi vừa chụp ảnh mặc dù làm như vậy là rất nguy hiểm, chỉ sểnh ra một chút là cả người cả xe rơi xuống vực sâu cả trăm mét.



Không hiểu là đến mùa mưa thì đi lên đây kiểu gì.



Đường thì quá dốc và trơn.



Những khúc cua tay áo cực gấp rất nguy hiểm kể cả với xe máy.



Một khúc ngoặt gấp rất dốc và con đường xuống núi ngoằn nghoèo chênh vênh phía xa.



Đường cứ dốc tuồn tuột, độ cao giảm nhanh ù cả tai.



Con đường này trông vậy mà xe U Oát vẫn lên xuống được nhưng rất nguy hiểm.



Một đoạn đường siêu dốc, không hiểu là bao nhiêu độ nữa, đã gài số 1 để xuống rồi nhưng vẫn phải rà cả phanh trước lẫn phanh sau.



Chả mấy chốc chúng tôi đã xuống tới con suối có cây cầu đá.



Tà Xùa đã về chiều tối, vắng vẻ không một bóng người.



Bao giờ rừng mới quay lại nơi đây?



Xuống tới thị trấn Bắc Yên, chúng tôi lại theo QL 37 chạy về Phù Yên.



Chạy thật nhanh để còn về Hà Nội ăn cơm tối.



Phù Yên đã tới gần.



Dừng chân nghỉ uống nước ở thị trấn Phù Yên.



Sau đó chúng tôi chạy một mạch về tới Hà Nội mà không gặp bất cứ trục trặc gì. Vậy là cuộc hành trình một vòng tỉnh Sơn La của chúng tôi đã kết thúc tốt đẹp với tổng chiều dài quãng đường đã đi qua là 1250km. Đây thực sự là một chuyến đi đáng nhớ với nhiều cảm xúc bất ngờ thú vị, đầy hồi hộp gay cấn. Sau chuyến đi này mới thấy có lẽ mình vẫn còn chưa già lắm, đủ sức tiếp tục đi thêm nhiều cung đường nữa trước khi nó bị thay đổi, tàn phá bởi bàn tay con người.

Sau chuyến đi này, tôi cũng sẽ cố gắng truyền đạt lại những gì đang xảy ra với dự án năng lượng mặt trời tại Háng Đồng tới các cơ quan báo chí, có thể là tới cả sứ quán Phần Lan tại Hà Nội để cần ngăn chặn và khắc phục ngay những hành động lãng phí kinh khủng như thế này. Rất mong được mọi người quan tâm và cùng chia sẻ những thông tin này vì đó là trách nhiệm của mỗi chúng ta đối với xã hội và đối với bản thân chúng ta, con cháu chúng ta, những người đang ngày ngày nộp thuế cho nhà nước và sẽ phải nộp thuế để trả nợ cho sự lãng phí này..

Sơn La - những nẻo đường biên ải - P25

Ngồi nói chuyện với các giáo viên của trường, tôi cũng hiểu thêm ra nhiều vấn đề. Đặc biệt có một câu chuyện mà đối với tôi, nó là một sự thật quá phũ phàng, mặc dù ai cũng biết là xã hội giờ nó như vậy nhưng có vẻ ở đây, nó được phơi bày một cách quá trần trụi và không thể không bị lên án.

Có hai mẹ con người Mông đi hái củi về. Cũng phải nói thêm rằng xã Háng Đồng này, 100% là người Mông. Thông thường thì người Mông ở đây, phụ nữ không biết tiếng Kinh và tất nhiên là không biết chữ.


Cậu bé này không biết có được đi học hay không mà giờ này còn đang hái củi.


Một dãy lớp học cũ rất tuềnh toàng, nhìn xa tưởng là cái chuồng trâu vì hở hoang hoác.


Lớp học này chắc là còn sót lại từ rất lâu rồi.


Chúng tôi rời trường học, vào thăm trụ sở ủy ban nhân dân xã Háng Đồng. Trụ sở ủy ban cũng chỉ đơn sơ mộc mạc thế này thôi. Vì là một xã mới tách ra nên chắc hẳn cũng chưa được đầu tư gì nhiều.


Ở đây cũng có điểm giao dịch của ngân hàng chính sách.


Một tháng chỉ giao dịch đúng một ngày 11.

 

Hôm trước, lúc chúng tôi ở Mộc Châu, khi nói chuyện với ông Trương Quang Nghĩa, Bí thư tỉnh ủy Sơn La thì được biết là ngày mai (6/3/2013) ông sẽ lên Háng Đồng để trực tiếp xem xét và làm việc với xã để có các chỉ đạo, hỗ trợ kịp thời cho xã. Thế mới biết sức mạnh của truyền thông thật là kinh khủng. Chỉ một phóng sự nhỏ đã tạo nên một dư luận rất lớn và gây ảnh hưởng mạnh mẽ. Do vậy, khi chúng tôi đến đây, trường và xã đã chuẩn bị chu đáo để ngày mai tiếp đón đoàn của Bí thư lên làm việc.

Quay trở lại câu chuyện với các giáo viên của trường tiểu học Háng Đồng, trong khi tôi hỏi thăm về tình hình hạ tầng điện nước ở đây thế nào, các anh nhắc đến có một dự án về năng lượng mặt trời, đã được triển khai ở đây từ năm 2009. Thiết bị máy móc đã được vận chuyển lên nhưng không hiểu sao từ bấy tới giờ không thấy ai tới lắp đặt cả. Cả đống thiết bị cứ vứt ngoài trời giữa mưa gió nay chắc đã hỏng cả rồi. Tôi và mọi người trong đoàn rất tò mò và đề nghị anh cán bộ phòng giáo dục huyện dẫn tới xem đống thiết bị này ra sao.

Đi bộ chừng 5 phút thì chúng tôi đã tới chỗ tập kết thiết bị.

Cả một đống lớn đến gần chục hòm gỗ dán được xếp chồng lên nhau để trực tiếp dưới đất ở ngoài trời không hề có mái che, vỏ hòm đã mốc đen vì mưa nắng.

 

Những hòm gỗ được làm có vẻ rất công phu và đắt tiền này giờ thành chỗ để phơi giày dép.


Một cái nhãn giấy trên vỏ thùng gỗ.


Tôi tra thử trên mạng thì tìm được thông tin sau:


04/08/2009
Dự án "Ứng dụng điện mặt trời cho khu vực miền núi và dân tộc ở Việt Nam"
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ trong việc tìm kiếm, huy động nguồn đầu tư quốc tế nhằm hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội các xã đặc biệt khó khăn, tháng 5/2000 Uỷ ban Dân tộc và Đại sứ quán Phần Lan tại Việt Nam cùng Tập đoàn NAPS SYSTEMS (Cộng hoà Phần Lan) đã thỏa thuận xây dựng Dự án cung cấp điện mặt trời cho 300 xã đặc biệt khó khăn thuộc địa bàn Chương trình 135 từ nguồn Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của Chính phủ Phần Lan.

Trong quá trình xây dựng dự án và căn cứ vào kết quả thực hiện dự án thí điểm tại vùng có số giờ nắng và chế độ cường độ bức xạ mặt trời thấp nhất của vùng dự án (xã ái Quốc, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn), các bộ ngành, các nhà khoa học và địa phương đã thống nhất ủng hộ về tính cấp thiết, tính khả thi và quy mô đầu tư của Dự án. Trên cơ sở đó, ngày 01/8/2003 tại Công văn số 1022/CP, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt kế hoạch mở rộng Dự án “ứng dụng điện mặt trời cho khu vực miền núi và dân tộc ở Việt Nam”, giao Uỷ ban Dân tộc là Chủ Dự án. Tổng vốn đầu tư của Dự án giai đoạn I là 6,0531 triệu EURO - tương đương 102.902,7 triệu VND; trong đó: 5,385 triệu EURO thuộc nguồn tín dụng ưu đãi của Chính phủ Phần Lan với lãi suất 0%, thời hạn vay 17 năm (vay 12 năm và 5 năm ân hạn), các thành tố cấu thành không hoàn lại là 37%. Nguồn vốn đối ứng của Chính phủ Việt Nam đóng góp phần ngân sách là 01 triệu EURO.

Dự án “ứng dụng điện mặt trời cho khu vực miền núi và dân tộc ở Việt Nam” giai đoạn I đầu tư cho 70 xã đặc biệt khó khăn thuộc địa bàn Chương trình 135, đồng thời là các xã mà theo quy hoạch điện lưới quốc gia không đáp ứng được sau năm 2010.

Mục tiêu của dự án là cung cấp điện đáp ứng nhu cầu sinh hoạt công cộng và phúc lợi xã hội thiết yếu cho các xã đặc biệt khó khăn thuộc địa bàn Chương trình 135. Dự án sẽ góp phần tạo nên các công trình hạ tầng cơ sở thiết yếu nhằm nâng cao mặt bằng trình độ dân trí, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, bảo vệ môi trường, ổn định tình hình dân tộc, và an ninh quốc phòng.

Dự án đầu tư hệ thống thiết bị đồng bộ cung cấp điện mặt trời kèm theo các phụ tải: Hệ điện trụ sở xã, trạm y tế, tủ lạnh bảo quản vaccine, nhà văn hoá xã, trạm nạp ắc quy và trạm thu-phát truyền hình qua vệ tinh.

Giai đoạn I của dự án được thực hiện ở 70 xã đặc biệt khó khăn thuộc các tỉnh miền Trung và miền núi phía Bắc. Trong đó có 34 xã miền Trung và 36 xã miền núi phía Bắc. Các xã được lựa chọn theo các tiêu chí như: địa bàn nằm ngoài quy hoạch đầu tư điện lưới quốc gia, cấp điện bằng các dạng năng lượng tái tạo khác không thích hợp, chế độ bức xạ mặt trời từ 3,5kwh/m2/ngày trở lên, số lượng hộ gia đình và nhân khẩu, mục đích sử dụng phù hợp với mục tiêu của dự án.

Thời gian thực hiện từ quý II năm 2009 đến quý III năm 2010. Thiết kế kỹ thuật và thiết kế công suất các hệ điện mặt trời do chuyên gia Tập đoàn FORTUM kết hợp với chuyên gia Việt Nam, chính quyền và nhân dân các địa phương cùng hợp tác xây dựng theo nhu cầu thực tế (bao gồm cả việc tính toán sau 15 năm phát triển). Số lượng Module các hệ điện mặt trời cần thiết cho các hệ thống ở các xã miền Bắc và miền Trung, Tây Nguyên được thiết kế với công suất khác nhau do cường độ bức xạ mặt trời tại hai vùng này khác nhau nhằm tiết kiệm nhưng vẫn đảm bảo tối đa hiệu quả đầu tư của dự án.

Sau khi hoàn thành việc lặp đặt, các công trình Dự án sẽ được bàn giao cho chính quyền các cấp địa phương quản lý và khai thác sử dụng theo quy định quản lý đầu tư xây dựng cơ bản và yêu cầu cụ thể khác của nhà tài trợ. Tổ quản lý công trình Dự án xã được thành lập để giúp Uỷ ban nhân dân xã quản lý vận hành hệ thống thiết bị. Trong tương lai, nếu các xã được đầu tư điện lưới quốc gia thì các công trình của dự án được chuyển về thôn bản của xã đó theo quyết định của địa phương và các yêu cầu khác về kỹ thuật.

Đối với vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, địa hình phức tạp, dân cư phân tán, nhu cầu phụ tải nhỏ, và không có nguồn nước đảm bảo phát triển thủy điện thì ứng dụng điện mặt trời là giải pháp kỹ thuật tối ưu mang lại hiệu quả kinh tế nhất so với các giải pháp cung cấp điện năng khác. Dự án là động lực thúc đẩy nâng cao mặt bằng trình độ dân trí, thúc đẩy phát triển nhận thức của đồng bào các dân tộc thiểu số, góp phần ổn định tình hình dân tộc, bảo vệ môi trường và thực hiện công bằng xã hội. Dự án tạo ra động lực giúp đồng bào dân tộc thiểu số các xã đặc biệt khó khăn có thêm điều kiện thuận lợi trong tiến trình hoà nhập vào sự phát triển chung của cả nước.

Việc sử dụng nguồn năng lượng mặt trời cung cấp điện không có bất kỳ một tác động tiêu cực nào đối với môi trường, sinh thái khi so sánh với việc sản xuất điện từ các nguồn năng lượng hoá thạch như than đá, dầu mỏ...

Giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính khoảng 67.075 tấn khi so sánh với việc sử dụng các nguồn năng lượng hoá thạch khác nói trên. Đây thực sự là nguồn lợi kinh tế lớn của dự án mang lại trong việc bảo vệ môi trường sinh thái để các ngành liên quan hợp tác khai thác đầu tư trong khuôn khổ các dự án khác .

Dự án “ứng dụng Điện mặt trời cho khu vực miền núi và dân tộc ở Việt Nam” là dự án mang đầy đủ tính khả thi về kỹ thuật chuyên môn, mục tiêu, nội dung và địa bàn thực hiện. Dự án còn mang ý nghĩa chính trị, xã hội sâu sắc, nhằm tạo nên những công trình hạ tầng cơ sở, thực hiện quyền bình đẳng, tạo ra những cơ hội cho sự phát triển và góp phần đảm bảo an ninh, quốc phòng tại các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa cũng như giúp đồng bào dân tộc thiểu số vùng dự án có thêm điều kiện thuận lợi trong tiến trình hoà nhập vào sự phát triển chung của cả nước.

Điện là một trong những hạng mục công trình cơ sở hạ tầng quan trọng nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội đối với tất cả các vùng trong cả nước. Vì vậy mục tiêu điện khí hoá nông thôn đã được Chính phủ đặt thành một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong tiến trình phát triển giai đoạn 2001-2020.

Đối với các xã vùng dự án là vùng miền núi cao có độ dốc lớn, không có nguồn nước để phát triển thuỷ điện; Số giờ nắng và chế độ cường độ bức xạ mặt trời lớn; Xa đường điện trung thế, địa hình đi lại phức tạp, đồng bào cư trú rải rác phân tán, phụ tải nhỏ; Khoảng cách từ trung tâm xã tới đường điện trung thế quá xa (từ 22 km trở lên) thì cung cấp điện bằng năng lượng mặt trời là giải pháp tối ưu.

Hoạt động của dự án sẽ là một trong những nội dung quan trọng của Kế hoạch hành động năng lượng tái tạo quốc gia do Bộ Công Thương đang chủ trì thực hiện trong giai đoạn 2001-2010.

ThS. Nguyễn Văn Thanh 

Ngoài ra, tôi còn tìm hiểu thêm quyết định số 175/QĐ-UBDT của ỦY BAN DÂN TỘC do ông Giàng Seo Phử- bộ trưởng, chủ nhiệm Ủy ban dân tộc ký ngày 15-6-2010


Nội dung như sau:

QUYẾT ĐỊNH
VỀ VIỆC PHÊ DUYỆT LẠI BÁO CÁO NGHIÊN CỨU KHẢ THI CỦA DỰ ÁN “ỨNG DỤNG ĐIỆN MẶT TRỜI CHO KHU VỰC MIỀN NÚI VÀ DÂN TỘC Ở VIỆT NAM”
BỘ TRƯỞNG, CHỦ NHIỆM ỦY BAN DÂN TỘC

Căn cứ Nghị định 60/2008/NĐ-CP ngày 09/5/2008 của Chính phủ về quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban Dân tộc;
Căn cứ Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 12/02/2009 của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình; Nghị định số 83/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 12/02/2009 của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình; Thông tư số 03/2009/TT-BXD ngày 26/03/2009 của Bộ Xây dựng quy định chi tiết một số nội dung của Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 12/02/2009 của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình;
Căn cứ Nghị định số 112/2009/NĐ-CP ngày 14/12/2009 của Chính phủ về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình; Quyết định số 957/QĐ-BXD ngày 29/09/2009 của Bộ Xây dựng về việc công bố Định mức chi phí quản lý dự án và tư vấn đầu tư xây dựng công trình;
Căn cứ Thông tư số 27/2007/TT-BTC ngày 03/4/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn về quản lý, thanh toán vốn đầu tư và vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước; Thông tư số 130/2007/TT-BTC ngày 02/11/2007 của Bộ Tài chính về sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 27/2007/TT-BTC ngày 03/4/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn về quản lý, thanh toán vốn đầu tư và vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước; Văn bản số 9878/BTC-QLN ngày 13/07/2009 của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn cơ chế tài chính và thực hiện dự án điện mặt trời sử dụng vốn ODA Phần Lan;
Căn cứ Quyết định số 292/QĐ-UBDT ngày 25/09/2009 của Bộ trưởng Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc về việc phê duyệt nội dung điều chỉnh Quyết định số 164/QĐ-UBDT ngày 17/06/2004 của Bộ trưởng Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc về việc phê duyệt đầu tư dự án ứng dụng điện mặt trời cho khu vực miền núi và dân tộc ở Việt Nam; Văn bản số 1903/BCT-NL ngày 25/2/2010 của Bộ Công thương về việc tham gia ý kiến về điều chỉnh, bổ sung Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án ứng dụng điện mặt trời;
Căn cứ hồ sơ Báo cáo nghiên cứu khả thi Dự án ứng dụng điện mặt trời cho khu vực miền núi và dân tộc ở Việt Nam do Trung tâm tư vấn xây dựng điện lực I lập;
Xét đề nghị của Ban quản lý dự án điện mặt trời về việc Phê duyệt lại Báo cáo nghiên cứu khả thi Dự án ứng dụng điện mặt trời cho khu vực miền núi và dân tộc ở Việt Nam tại tờ trình số 263/TT-BQLDA ngày 08/6/2010; của Vụ Kế hoạch - Tài chính tại tờ trình phê duyệt Báo cáo nghiên cứu khả thi (hiệu chỉnh) dự án ứng dụng điện mặt trời cho khu vực miền núi và dân tộc ở Việt Nam ngày 11/6/2010,

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Phê duyệt lại Báo cáo nghiên cứu khả thi của Dự án “Ứng dụng điện mặt trời cho khu vực miền núi và dân tộc ở Việt Nam” với các nội dung chủ yếu sau:
1. Tên dự án: Dự án Ứng dụng điện mặt trời cho khu vực miền núi và dân tộc ở Việt Nam.
2. Chủ đầu tư: Ủy ban Dân tộc
3. Tổ chức tư vấn lập dự án: Trung tâm Tư vấn Xây dựng Điện lực 1 - Công ty Điện lực 1.
4. Chủ nhiệm lập dự án: Lê Kim Dũng.
5. Mục tiêu đầu tư xây dựng:
Mục tiêu của Dự án là cung cấp nguồn điện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt công cộng và phúc lợi xã hội thiết yếu cho các xã, thôn bản chưa có điện lưới quốc gia sau năm 2010, qua đó sẽ góp phần tạo nên các hạ tầng cơ sở thiết yếu nhằm nâng cao trình độ dân trí, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, bảo vệ môi trường, ổn định tình hình dân tộc và an ninh quốc phòng.
6. Nội dung và quy mô đầu tư xây dựng:
Nội dung Dự án là đầu tư đồng bộ thiết bị cung cấp điện từ nguồn năng lượng mặt trời kèm theo các hệ phụ tải tại địa bàn của 70 xã thuộc 8 tỉnh, 20 huyện. Mỗi xã thuộc dự án được đầu tư đồng bộ với thiết bị thuộc các hệ điện mặt trời như sau:
a) Các xã Miền Bắc.
- Trụ sở các UBND xã Công suất: 600w
- Trạm Y tế xã Công suất: 400w
- Tủ bảo quản Vaccine. Công suất: 200w
- Nhà văn hóa xã (hoặc thôn, bản…). Công suất: 400w
- Trạm nạp ắc - quy. Công suất: 800w
- Trạm thu - phát tín hiệu truyền hình qua vệ tinh. Công suất: 600w
b) Các xã Miền Trung.
- Trụ sở các UBND xã Công suất: 400w
- Trạm Y tế xã Công suất: 300w
- Tủ bảo quản Vaccine. Công suất: 200w
- Nhà văn hóa xã (hoặc thôn, bản…). Công suất: 300w
- Trạm nạp ắc - quy. Công suất: 800w
- Trạm thu - phát tín hiệu truyền hình qua vệ tinh. Công suất: 400w
Thiết bị được nhập khẩu đồng bộ từ nước Cộng hòa Phần Lan và xây dựng cơ sở hạ tầng kèm theo để vận hành dự án (có phụ lục I tổng hợp khối lượng kèm theo).
7. Địa điểm xây dựng:
Dự án được xây dựng trên địa bàn 70 xã đặc biệt khó khăn thuộc 20 huyện trong 8 tỉnh khu vực miền núi và dân tộc ở Việt Nam gồm miền Bắc: tỉnh Nghệ An 17 xã; Lai Châu 8 xã; Điện Biên 7 xã; Sơn La 5 xã; Cao Bằng 7 xã; miền Trung: tỉnh Quảng Ngãi 5 xã; Quảng Nam 19 xã; Quảng Bình 2 xã (có phụ lục II danh sách các xã kèm theo).
8. Diện tích sử dụng đất:
Diện tích sử dụng đất của 70 xã thuộc dự án vào khoảng 111.440 m2.
Mỗi xã yêu cầu diện tích sử dụng đất gồm khoảng 1.592 m2.
Trong đó:
- 12 m2 x 6 hệ điện mặt trời.
- 1.520 m2 cho vị trí cột ăng ten.
9. Các giải pháp kỹ thuật: Theo Báo cáo nghiên cứu khả thi kèm theo.
10. Loại, cấp công trình: Nhóm B.
11. Thiết bị công nghệ:
Hệ thống thiết bị năng lượng mặt trời và các phụ kiện lắp đặt kèm do Tập đoàn FORTUM NAPS cung cấp đồng bộ và thiết kế phù hợp theo điều kiện khí hậu miền Bắc và miền Trung của Việt Nam.
12. Phương án giải phóng mặt bằng, tái định cư:
UBND các huyện chỉ đạo các xã tham gia dự án có trách nhiệm bố trí kinh phí và kế hoạch giải phóng mặt bằng cho một số hạng mục phải sử dụng đất để thi công, đảm bảo không có tranh chấp đất đai, nhà cửa công trình trong quá trình lắp đặt các hệ pin mặt trời.
13. Tổng mức đầu tư: 197.273.931.255 đ (Tính trên cơ sở định mức, đơn giá, tỷ giá EURO tại thời điểm lập dự án tháng 6/2010 là: 24.906 VNĐ/1EURO).
Khoản mục chi phí VNĐ EUR
Tổng số 197.273.931.255 7.920.739
Trong đó:
- Chi phí thiết bị, đào tạo và chuyển giao kỹ thuật: 144.505.558.428 5.802.038
- Chi phí xây dựng, lắp đặt: 27.838.085.872 1.117.726
- Chi phí quản lý dự án: 4.579.170.657 183.858
- Chi phí tư vấn đầu tư xây dựng: 6.429.785.615 258.162
- Chi phí khác: 6.357.280.008 255.251
- Chi phí dự phòng: 7.564.045.781 303.704
14. Nguồn vốn đầu tư: Tổng số: 197.273.931.255 VNĐ (7.920.739 EUR)
Trong đó:
* Vốn vay: 134.133.255.480 VNĐ (5.385.580 EUR)
* Vốn đối ứng: 63.140.670.880 VNĐ (2.535.159 EUR)
15. Hình thức quản lý dự án:
- Chủ đầu tư quản lý và điều hành dự án thông qua Ban quản lý dự án điện mặt trời ở Trung ương.
- Quản lý, vận hành sau đầu tư: Ủy ban nhân dân các xã dự án nhận bàn giao công trình từ Ban QLDA điện mặt trời và các đơn vị thi công sau khi đã hoàn thiện công tác thi công lắp đặt. Tại các xã thành lập tổ quản lý để quản lý, vận hành, bảo trì, sửa chữa, khai thác công trình một cách hiệu quả.
- Trong tương lai nếu các xã có điện lưới quốc gia ổn định thì các hạng mục công trình của dự án được chuyển về lắp đặt tại các thôn bản theo quyết định của địa phương, nhưng không làm thay đổi mục tiêu và nội dung của dự án.
16. Thời gian thực hiện dự án:
- Thời gian thực hiện: Từ năm 2010.
Điều 2. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký và thay thế Quyết định 164/2004/UBDT-QĐ ngày 17/6/2004 của Ủy ban Dân tộc.
Điều 3. Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Tài chính, Trưởng Ban quản lý dự án điện mặt trời, Vụ trưởng các Vụ thuộc Ủy ban Dân tộc, Ủy ban nhân dân các tỉnh vùng dự án và các đơn vị liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.

---------------------------------

Tóm lại thì đây là một dự án của Ủy ban dân tộc miền núi xây dựng trạm phát điện năng lượng mặt trời để phục vụ:
- Trụ sở UBND xã Công suất: 600w
- Trạm Y tế xã Công suất: 400w
- Tủ bảo quản Vaccine. Công suất: 200w
- Nhà văn hóa xã (hoặc thôn, bản…). Công suất: 400w
- Trạm nạp ắc – quy. Công suất: 800w
- Trạm thu – phát tín hiệu truyền hình qua vệ tinh. Công suất: 600w

Tổng giá trị của dự án là 197.273.931.255 đồng cho 70 xã đặc biệt khó khăn thuộc 20 huyện trong 8 tỉnh khu vực miền núi và dân tộc ở Việt Nam gồm miền Bắc: tỉnh Nghệ An 17 xã; Lai Châu 8 xã; Điện Biên 7 xã; Sơn La 5 xã; Cao Bằng 7 xã; miền Trung: tỉnh Quảng Ngãi 5 xã; Quảng Nam 19 xã; Quảng Bình 2 xã. Như vậy, chi phí cho 1 xã là 2.818.200.000 đồng (Hai tỷ tám trăm mười tám triệu hai trăm nghìn đồng)

Như vậy nghĩa là, cái đống thùng gỗ rêu phong mục nát vứt ở đây từ năm 2009 tới giờ (mới 4 năm) có trị giá là Hai tỷ tám trăm mười tám triệu hai trăm nghìn đồng.



Số tiền lớn như vậy sẽ đủ mua bao nhiêu bộ quần áo ấm, giầy dép, xây dựng được bao nhiêu lớp học, nhà ở cho lũ trẻ Háng Đồng này? Tại sao VTV1 chỉ lên quay phim lũ trẻ phải bắt chuột để có thịt ăn cơm, nồi cơm không có vung.. để mọi người đi quyên góp từng đồng một mang lên đây ủng hộ trong khi người ta đang vứt đi hàng tỷ đồng ở đây?



Nhìn các ký hiệu ghi trên vỏ thùng thì đây đều là hàng dễ vỡ và phải được đặt trong nhà, tránh mưa hoặc nước.



Thùng đựng trạm vệ tinh, công suất 600W



Tem nhãn của thùng được ghi đầy đủ thông tin.



Đây là đống cột ăng ten của trạm vệ tinh bằng thép không rỉ rất xịn được nhập khẩu từ Phần Lan của hãng NAPS mặc dù những thứ này thừa sức chế tạo ở trong nước.



Móng cột được làm dạng vít khoan giống kết cấu móng nhà chống lũ của Đồng Bằng sông Cửu Long chúng tôi vẫn làm xưa kia. Kiểu vít khoan này chỉ phù hợp với vùng đất sét chứ với địa hình núi đá thì có mà khoan vào mắt, không hiểu các vị khoa học kiểu gì mà lại cho thiết kế sử dụng cái này.