Khi đi qua mỏ Antimoan, tôi phải dừng lại đứng lặng trước sự tàn phá thiên nhiên của cái mỏ này. Rừng núi vốn kỳ vĩ nơi đây bỗng trở thành một bãi đất thải khổng lồ, nham nhở, đen đúa, nhớp nháp.
Một vài thông tin về tác hại của việc khai thác khoáng sản bừa bãi gây ô nhiễm môi trường, đặc biệt là nguồn nước.
Qua nghiên cứu, ảnh hưởng của hoạt động khoáng sản tới nguồn nước (khả năng tiêu thoát, chế độ thủy văn, lưu lượng hồ chứa...) và sự biến đổi thành phần hóa học của nguồn nước, các nhà khoa học của Trung tâm Khoa học Tự nhiên & Công nghệ Quốc gia đã xác định những nguyên nhân và xây dựng giải pháp về khoa học và công nghệ nhằm giảm thiểu ô nhiễm và bảo vệ môi trường nước trong khu vực khai thác, đồng thời tránh được những tác động tới môi trường xung quanh.
Trong những năm gần đây, hoạt động khai thác và chế biến khoáng sản (HĐKS) phát triển một cách ồ ạt, gây những tác động tiêu cực tới môi trường, đặc biệt gây ô nhiễm và suy thoái nguồn nước sản xuất nông nghiệp.
Trong HĐKS, nước được sử dụng với khối lượng lớn cho hầu hết công đoạn sản xuất. Quá trình sản xuất, tháo khô mỏ, đổ thải, v.v..., đã gây những tác động tiêu cực tới nguồn nước sản xuất nông nghiệp ở khu vực xung quanh khai trường.
HDDKS làm thay đổi địa hình, hệ thống nước mặt, điều kiện tàng trữ và thoát nước (tác động cơ học); làm thay đổi tính chất vật lý, thành phần hoá học của nước (tác động hoá học).
Ảnh hưởng của những tác động cơ học của HĐKS tới nguồn nước
Quá trình đào xới, vận chuyển đất đá và quặng làm địa hình khu khai trường bị hạ thấp, ngược lại, quá trình đổ chất thải rắn làm địa hình bãi thải được tâng cao.
Những thay đổi này sẽ dẫn đến những biến đổi về điều kiện thuỷ văn, các yếu tố của dòng chảy trong khu mỏ như thay đổi khả năng thu, thoát nước, hướng và vận tốc dòng chảy mặt, chế độ thuỷ văn của các dòng chảy như mực nước, lưu lượng, v.v...
Sự tích tụ chất thải rắn do tuyển rửa quặng trong các lòng hồ, kênh mương tưới tiêu có thể làm thay đổi lưu lượng dòng chảy, dung tích chứa nước, biến đổi chất lượng nguồn nước và làm suy giảm công năng của các công trình thuỷ lợi nằm liền kề với các khu khai thác mỏ.
Khi tiến hành các HĐKS sẽ hình thành các moong sâu đến hàng trăm mét, là nơi tập trung nước cục bộ. Ngược lại, để đảm bảo hoạt động của mỏ, phải thường xuyên bơm tháo khô nước ở đáy moong, hầm lò, hình thành các phễu hạ thấp mực nước dưới đất với độ sâu mực từ vài chục đến hàng trăm mét và bán kính phễu hàng trăm mét. Điều đó dẫn đến tháo khô các công trình chứa nước trên mặt như hồ ao,... xung quanh khu mỏ.
Có thể nêu nhiều điển hình về sự ảnh hưởng của khai thác mỏ đến các nguồn nước ở khu mỏ thiếc Sơn Dương (tỉnh Tuyên Quang), tổng lượng nước thải công nghiệp gồm bùn cát và nước khoảng 2000 m3/ngày được xả ra các đập lắng với tổng dung tích > 74000 m3.
Các đập lắng nước này đã làm tăng đáng kể diện tích mặt nước, thay đổi chế độ thuỷ văn của suối. Sau một thời gian đổ thải, hầu hết các hồ và nhiều đoạn suối đã bị lấp đầy bùn, cát.
Đáy hồ cao hơn cốt cao tự nhiên từ 5-10 m làm thay đổi dung tích, lưu lượng và hướng dòng chảy tự nhiên. Các hồ và suối trước đây là nguồn nước sản xuất nông nghiệp, hiện nay hoàn toàn không thể sử dụng được.
Ở các mỏ thiếc, đá quí ở miền tây Nghệ An, do quá trình đào bới và đổ thải, các khe Bản Sỏi, Khe Mồng, Tổng Huống - là nguồn cấp nước cho nông nghiệp của khu vực, bị xói lở bờ, bồi lấp dòng chảy, đổi dòng, giảm khả năng tưới từ đó gây ra giảm vụ, giảm năng suất cây trồng.
Khe Nậm Tôn bị đục và bị ô nhiễm trên chiều dài hơn 20 km, diện tích lên đến 280 ha. Khai thác đá quý ở Quì Châu đã làm một số suối và công trình thuỷ lợi bị phá huỷ, các hố khai thác sâu là nơi tích tụ chất thải làm ô nhiễm nguồn nước.
Khai thác than ở vùng Quảng Ninh cũng làm cho các sông, hồ và các công trình chứa nước bị xuống cấp và hư hại nghiêm trọng.
Ở Cổ Định - Thanh Hoá, trước khi khai thác quặng crômit, vùng này có trữ lượng nước mặt tương đối lớn (sông Lê, các suối, các hồ,..). Hiện nay, diện mạo mạng lưới thuỷ văn của khu vực thay đổi hẳn.
Các hồ, suối tự nhiên bị bồi lấp, làm giảm đáng kể khả năng tiêu thoát lũ của khu vực, nhiều moong khai thác quặng trở thành hồ nước mặt. Tình trạng khai thác, đổ thải bừa bãi và quá tải đã làm cho chất thải rắn là bùn, cát từ bãi thải tràn ra ngoài, bồi lấp một một vùng rộng lớn hàng chục hecta đất canh tác, làm ô nhiễm đất và nguồn nước nông nghiệp, thiệt hại ước tính hàng trăm triệu đồng.
Tác động hoá học của HĐKS tới nguồn nước
Song song với những tác động cơ học đến nguồn nước nói chung và nguồn nước nông nghiệp nói riêng, những tác động hoá học đối với nguồn nước cũng rất đáng kể.
Sự phá vỡ cấu trúc của đất đá chứa quặng khi tiến hành đào bới và khoan nổ sẽ thúc đẩy các quá trình hoà tan, rửa lũa các thành phần chứa trong quặng và đất đá, quá trình tháo khô mỏ, đổ các chất thải vào nguồn nước, chất thải rắn, bụi thải không được quản lý, xử lý chặt chẽ, tham gia vào thành phần nước mưa, nước chảy tràn cung cấp cho nguồn nước tự nhiên,... là những tác động hoá học làm thay đổi tính chất vật lý và thành phần hoá học của nguồn nước xung quanh các khu mỏ.
Mức độ ô nhiễm hoá học các nguồn nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố như đặc điểm thân quặng, thành phần thạch học và độ bền vững của đất đá chứa quặng, phương pháp và trình độ công nghệ khai thác, chế biến quặng, biện pháp quản lý và xử lý chất thải,...
Nước ở các mỏ than thường có hàm lượng cao các ion kim loại nặng, á kim, các hợp chất hữu cơ, các nguyên tố phóng xạ... cao hơn so với nước mặt và nước biển khu vực đối chứng và cao hơn TCVN từ 1-3 lần. Đặc biệt là khu vực từ Quảng Yên đến Cửa Ông. Sự biến đổi chất lượng nguồn nước, tải lượng một số chất thải trong nước tháo khô các mỏ than.
Trong các mỏ thiếc sa khoáng, biểu hiện chính của ô nhiễm hoá học là làm đục nước bởi bùn - sét lơ lửng, tăng hàm lượng các ion sắt và một số khoáng vật nặng.
Việc khai thác và tuyển quặng vàng phải dùng đến thuốc tuyển chứa Hg, CN-...; ngoài ra, các nguyên tố kim loại nặng cộng sinh như asen, antimoan, các loại quặng sunfua, có thể rửa lũa hoà tan vào nước.
Vì vậy, ô nhiễm hoá học do khai thác và tuyển quặng vàng là nguy cơ đáng lo ngại đối với nguồn nước sinh hoạt và nước nông nghiệp. Tại những khu vực này, nước thường bị nhiễm bẩn bởi bùn sét và một số kim loại nặng và hợp chất độc như CN-, Hg, As, Pb v.v... mà nguyên nhân chính là do nước thải, chất thải rắn không được xử lý đổ bừa bãi ra khai trường và khu vực tuyển.
Nguyên nhân gây suy thoái nguồn nước
Nguồn nước mặt và nước ngầm xung quanh các khu vực HĐKS sử dụng làm nguồn cấp cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt đang bị suy giảm về trữ lượng và ô nhiễm, suy thoái về chất lượng do hai nhóm nguyên nhân sau:
- Nguyên nhân về quản lý: Từ những năm 80 đến nay, HĐKS phát triển mạnh, nhưng thiếu tổ chức và quản lý chặt chẽ, xuất hiện nhiều tổ chức không chuyên và nạn khai thác tự do, các địa phương chưa có quy hoạch sử dụng khoáng sản phù hợp, lực lượng quản lý tài nguyên và môi trường quả mỏng, phương thức và biện pháp quản lý chưa thích hợp, dân trí thấp, kinh tế chưa phát triển dẫn đến tình trạng khai thác khoáng sản tràn lan, thiếu tổ chức , không quản lý được quá trình khai thác và đổ thải.
- Nguyên nhân về kĩ thuật và công nghệ: Trong HĐKS hầu hết đều dùng những thiết bị và công nghệ cũ, lạc hậu, chưa chú ý đến sự đồng bộ về thiết bị và công nghệ bảo vệ môi trường. Hầu hết các mỏ thiết kế và xây dựng từ những thập niên 60 - 70 với qui mô về sản lượng quặng và khối lượng đất đá thải ít hơn nhiều so với hiện nay.
Sau quá trình khai thác 30 - 40 năm, các bãi thải được quy hoạch với quy mô nhỏ, chưa tính đến các biến cố về quá tải đối với các bãi thải. Một lượng chất thải rất lớn bao gồm chất thải rắn, nước thải và bùn thải hàng năm, không được quản lý và xử lý, gây ô nhiễm môi trường
Nguồn: www.canhsatmoitruong.gov.vn
Con đường từ Mậu Duệ tới Du Già toàn là đường đất và đá cấp phối, gập ghềnh lên xuống và rất vắng vẻ.
Tôi lao nhanh trên con đường offroad, tận hưởng cảm giác điều khiển chiếc xe vượt qua các đoạn đường khó khăn. Bỗng nhìn thấy ba bố con đang chuẩn bị cơm ăn trưa trong một ngôi nhà dựng dở dang ven đường, tôi quay xe lại xông vào xin cơm ăn.
Chuyến đi này của tôi có vẻ giống như Tây du ký, toàn là xin ngủ nhờ rồi lại xin cơm ăn, có điều tôi may mắn gặp toàn Bồ Tát, chẳng gặp phải con yêu quái nào cả.
Anh bạn người Dao này mới 20 tuổi nhưng đã có 2 thằng con trai. Anh ta mới ra ở riêng, vừa nhờ bạn bè đến giúp dựng nhà, dựng gần xong thì thiếu gỗ nên phải đợi mấy hôm nữa có đủ gỗ mới dựng tiếp. Cũng may mà có sẵn cơm và thức ăn, anh ta xới cơm cho tôi và lấy thịt lơn muối xào cho tôi ăn. Hai đứa trẻ rất ngoan, chạy đi lấy bát đũa và sắp xếp đồ ăn cho tôi rất nhiệt tình. Tôi với anh chàng Dao ngồi ăn cơm, uống rượu Thóc vừa hỏi chuyện vui vẻ.
Bữa cơm thân mật ở độ cao 716m như thế này, ở Hà Nội có mất tiền triệu cũng không mua được.
Cơm nước xong xuôi, tôi chia tay 3 bố con để tiếp tục chặng đường tới Du Già.
Con đường ngày càng nhỏ lại, như một sợi chỉ chạy vòng vèo quanh núi.Chạy qua một chiếc cầu tre ọp ẹp, vừa đi vừa run
Đường mỗi lúc một bé, đường này mà mưa thì trơn lắm đây.
Khu vực này bà con hầu hết là dân tộc Dao đỏ. Họ làm nhà sàn bằng gỗ ở lưng chừng núi và đã có điện lưới quốc gia để thắp sáng. Nhà nước cũng đã lắp đặt hệ thống cung cấp nước sạch cho bà con ở đây nên cuộc sống hiện tại đã được cải thiện rất nhiều so với trước, các điểm trường cũng được xây dựng khang trang và đúng tiêu chuẩn của Bộ Giáo Dục. Trẻ em ở khu vực này tôi thấy khá thông minh, lanh lợi và được học hành tử tế. Tuy nhiên tập quán tảo hôn thì vẫn còn, mọi người kết hôn và lập gia đình quá sớm dẫn tới việc tăng dân số nhanh, gây áp lực đến quỹ đất và tài nguyên thiên nhiên trong khu vực.
Bản Ngâm La nằm ở độ cao 873m
Vài nét sơ lược về dân tộc Dao
Tên tự gọi: Kìm Miền, Kìm Mùn (người rừng).
Tên gọi khác: Mán.
Nhóm địa phương: Dao Ðỏ (Dao Cóc Ngáng, Dao sừng, Dao Dụ lạy, Dao Ðại bản), Dao Quần chẹt (Dao Sơn đầu, Dao Tam đảo, Dao Nga hoàng, Dụ Cùn), Dao Lô gang (Dao Thanh phán, Dao Cóc Mùn), Dao Tiền (Dao Ðeo tiền, Dao Tiểu bản), Dao Quần trắng (Dao Họ), Dao Thanh Y, Dao Làn Tẻn (Dao Tuyển, Dao áo dài).
Dân số: 473.945 người.
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc ngữ hệ Hmông - Dao.
Lịch sử: Người Dao có nguồn gốc từ Trung Quốc, việc chuyển cư sang Việt Nam kéo dài suốt từ thế kỷ XII, XIII cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Họ tự nhận mình là con cháu của Bản Hồ (Bàn vương), một nhân vật huyền thoại rất phổ biến và thiêng liêng ở người Dao.
Ở các xóm Dao thường có thợ rèn sửa chữa công cụ. Lò rèn chỉ có kìm, de, búa và ống bễ. ống bễ là một khúc gỗ khoét rỗng (1m x 0,30 - 0,40m), nằm ngang để quạt gió. Người khách thường giúp thợ rèn kéo bễ.
Hoạt động sản xuất: Nương, thổ canh hốc đá, ruộng là những hình thức canh tác phổ biến ở người Dao. Tuỳ từng nhóm, từng vùng mà hình thức canh tác này hay khác nổi trội lên như: Người Dao Quần Trắng, Dao áo Dài, Dao Thanh Y chuyên làm ruộng nước. Người Dao Ðỏ - thổ canh hốc đá. Phần lớn các nhóm Dao khác làm nương du canh hay định canh. Cây lương thực chính là lúa, ngô, các loại rau màu quan trọng như bầu, bí, khoai... Họ chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà ở vùng lưng chừng núi và vùng cao còn nuôi ngựa, dê.
Nghề trồng bông, dệt vải phổ biến ở các nhóm Dao. Họ ưa dùng vải nhuộm chàm.
Hầu hết các xóm đều có lò rèn để sửa chữa nông cụ. Nhiều nơi còn làm súng hoả mai, súng kíp, đúc những hạt đạn bằng gang. Nghề thợ bạc là nghề gia truyền, chủ yếu làm những đồ trang sức như vòng cổ, vòng chân, vòng tay, vòng tai, nhẫn, dây bạc, hộp đựng trầu...
Nhóm Dao Ðỏ và Dao Tiền có nghề làm giấy bản. Giấy bản dùng để chép sách cúng, sách truyện, sách hát hay dùng cho các lễ cúng như viết sớ, tiền ma. Nhiều nơi có nghề ép dầu thắp sáng hay dầu ăn, nghề làm đường mật.
Phụ nữ Dao đỏ búi tóc vấn khăn lên đỉnh đầu. Trang phục của họ phần cổ áo thêu hoa văn sặc sỡ, riêng chiếc yếm ngực còn gắn những bông hoa tám cánh chạm bằng bạc.
Ăn: Người Dao thường ăn hai bữa chính trong ngày, bữa trưa và bữa tối. Chỉ những ngày mùa bận rộn mới ăn thêm bữa sáng. Người Dao ăn cơm là chính, ở một số nơi lại ăn ngô nhiều hơn ăn cơm hoặc ăn cháo. Cối xay lúa thường dùng là loại cối gỗ đóng dăm tre. Cối giã có nhiều loại như cối gỗ hình trụ, cối máng giã bằng chày tay, cối đạp chân, cối giã bằng sức nước. Họ thích ăn thịt luộc, các món thịt sấy khô, ướp chua, canh măng chua. Khi ăn xong, người ra kiêng để đũa ngang miệng bát vì đó là dấu hiệu trong nhà có người chết.Phổ biến là rượu cất, ở một vài nơi lại uống hoãng, thứ rượu không qua trưng cất, có vị chua và ít cay.
Người Dao thường hút thuốc lá và thuốc lào bằng điếu cầy hay tẩu.
Mặc: Trước đây đàn ông để tóc dài, búi sau gáy hoặc để chỏm tóc dài trên đỉnh đầu, xung quanh cạo nhẵn. Các nhóm Dao thường có cách đội khăn khác nhau. áo có hai loại, áo dài và áo ngắn.
Phụ nữ Dao mặc rất đa dạng, thường mặc áo dài yếm, váy hoặc quần. Y phục theo rất sặc sỡ. Họ không theo theo mẫu vẽ sẵn trên vải mà hoàn toàn dựa vào trí nhớ, thêu ở mặt trái của vải để hình mẫu nổi lên mặt phải. Nhiều loại hoa văn như chữ vạn, cây thông, hình chim, người, động vật, lá cây. Cách in hoa văn trên vải bằng sáp ong ở người Dao rất độc đáo. Muốn hình gì người ta dùng bút vẽ hay nhúng khuôn in vào sáp ong nóng chẩy rồi in lên vải. Vải sau khi nhuộm chàm sẽ hiện lên hoa văn mầu xanh lơ do phủ lớp sáp ong không bị thấm chàm.
Ở: Người Dao thường sống ở vùng lưng chừng núi hầu khắp các tỉnh miền núi miền Bắc. Tuy nhiên một số nhóm như Dao Quần trắng ở thung lũng, còn Dao Ðỏ lại ở trên núi cao. Thôn xóm phần nhiều phân tán, rải rác, năm bẩy nóc nhà. Nhà của người Dao rất khác nhau, tuỳ nơi họ ở nhà trệt, nhà sàn hay nhà nửa sàn, nửa đất.
Phương tiện vận chuyển: Người Dao ở vùng cao quen dùng địu có hai quai đeo vai, vùng thấp gánh bằng đôi dậu. Túi vải hay túi lưới đeo vai rất được họ ưa dùng.
Quan hệ xã hội: Trong thôn xóm tồn tại chủ yếu các quan hệ xóm giềng và quan hệ dòng họ.
Người Dao có nhiều họ, phổ biến nhất là các họ Bàn, Ðặng, Triệu. Các dòng họ, chi họ thường có gia phả riêng và có hệ thống tên đệm để phân biệt giữa những người thuộc các thế hệ khác nhau.
Sinh đẻ: Phụ nữ đẻ ngồi, đẻ ngay trong buồng ngủ. Trẻ sơ sinh được tắm bằng nước nóng. Nhà có người ở cữ người ta treo cành lá xanh hay cài hoa chuối trước cửa để làm dấu không cho người lạ vào nhà vì sợ vía độc ảnh hưởng tới sức khoẻ đứa trẻ. Trẻ sơ sinh được ba ngày thì làm lễ cúng mụ.
Cưới xin: Trai gái muốn lấy được nhau phải so tuổi, bói chân gà xem có hợp nhau không. Có tục chăng dây, hát đối đáp giữa nhà trai và nhà gái trước khi vào nhà, hát trong đám cưới. Lúc đón dâu, cô dâu được cõng ra khỏi nhà gái và bước qua cái kéo mà thầy cúng đã làm phép mới được vào nhà trai.
Ma chay: Thày tào có vị trí quan trọng trong việc ma và làm chay. Nhà có người chết con cái đến nhà thầy mời về chủ trì các nghi lễ, tìm đất đào huyệt. Người ta kiêng khâm liệm người chết vào giờ sinh của những người trong gia đình. Người chết được liệm vào quan tài để trong nhà hay chỉ bó chiếu ra đến huyệt rồi mới cho vào quan tài. Mộ được đắp đất, xếp đá ở chân mộ. ở một số nơi có tục hoả táng cho những người chết từ 12 tuổi trở lên.
Lễ làm chay cho người chết diễn ra sau nhiều năm, thường được kết hợp với lễ cấp sắc cho một người đàn ông nào đó đang sống trong gia đình. Lễ tổ chức ba ngày, ngày đầu gọi là lễ phá ngục, giải thoát hồn cho người chết, ngày thứ hai gọi là lễ tắm hương hoa cho người chết trước khi đưa hồn về bàn thờ tổ tiên trong nhà, ngày thứ ba lễ cấp sắc. Người chết được cúng đưa hồn về quê cũ ở Dương Châu.
Cấp sắc là nghi lễ truyền thống của những người đàn ông Dao đến tuổi trưởng thành.
Nhà mới: Muốn làm nhà phải xem tuổi những người trong gia đình, nhất là tuổi chủ gia đình. Nghi lễ chọn đất được coi là quan trọng. Buổi tối, người ta đào một hố to bằng miệng bát, xếp một số hạt gạo tượng trưng cho người, trâu bò, tiền bạc, thóc lúa, tài sản rồi úp bát lên. Dựa vào mộng báo đêm đó mà biết điềm xấu hay tốt. Sáng hôm sau ra xem hỗ, các hạt gạo vẫn giữa nguyên vị trí là có thể làm nhà được.
Thờ cúng: Người Dao vừa tin theo các tín ngưỡng nguyên thuỷ, các nghi lễ nông nghiệp vừa chịu ảnh hưởng sâu sắc của Khổng giáo, Phật giáo và nhất là Ðạo giáo. Bàn vương được coi là thuỷ tổ của người Dao nên được cúng chung với tổ tiên từng gia đình. Theo truyền thống tất cả đàn ông đã đến tuổi trưởng thành đều phải qua lễ cấp sắc. một nghi lễ vừa mang tính chất của Ðạo giáo, vừa mang những vết của lễ thành đinh xa xưa.
Lịch: Người Dao quen dùng âm lịch để tính thời gian sản xuất và sinh hoạt.
Học: Hầu hết các xóm thôn người Dao đều có người biết chữ Hán, nôm Dao. Người ta học chữ để đọc sách cúng, sách truyện, thơ.
Văn nghệ: Người Dao có vốn văn nghệ dân gian rất phong phú, nhiều truyện cổ, bài hát, thơ ca. Ðặc biệt truyện Quả bầu với nạn hồng thuỷ, Sự tích Bàn Vương rất phổ biến trong người Dao. Múa, nhạc được họ sử dụng chủ yếu trong các nghi lễ tôn giáo.
Chơi: Người Dao thích chơi đu, chơi quay, đi cà kheo.
Nguồn: Trang tin điện tử của Ủy ban dân tộc
Rời Mậu Duệ, tôi đến xã Đường Thượng thuộc huyện Yên Minh.
Những phế tích còn sót lại từ thời Pháp thuộc
Không rõ đây là đồn bốt hay dinh thự của một kẻ quyền uy ngày xưa
Phế tích nằm trên một quả đồi, án ngữ đường vào thung lũng.
Giờ đây người ta trồng ngô trong lòng phế tích này luôn, liệu đây có phải là dinh cơ của Sủng Chúa Đà khét tiếng tàn ác xưa kia?
Thung lũng Đường Thượng huyền thoại ẩn hiện sau khe núi đây rồi.
Nhân đây, xin đăng lại một câu truyện có liên quan tới thung lũng Đường Thượng này.
Cột đá hành hình và những bí ẩn chưa có lời giải
Chẳng biết chuyện thật hay hư, chỉ biết rằng cây cột đá đó đến ngày nay vẫn tồn tại, như một minh chứng sống động nhất tố cáo bản chất ác độc của một số thổ ty, quan lang ngày xưa.
Đêm ở cao nguyên đá Hà Giang lạnh và heo hút. Bóng tối đặc quánh, như có thể dùng dao xắt được ra từng mảnh. Bên những chén rượu ngô uống mãi vẫn thấy ngọt, chúng tôi được các cụ già ở xã Đường Thượng, huyện Yên Minh kể cho nghe những truyền thuyết về cây cột đá giết người của một thổ ty từng cai quản vùng này cách nay hơn 200 năm, có tên gọi Sùng Chúa Đà. Dinh cơ của thổ ty Sùng Chúa Đà đến nay chỉ còn là phế tích.Bà Dương Thanh Hương, Phó Giám đốc Bảo tàng Hà Giang, người trực tiếp lên Đường Thượng đưa cây cột đá này về trưng bày, cho biết khi các cán bộ bảo tàng tìm đến thì phát hiện cây cột đá này nằm đổ trên một nương đá, cách UBND xã Đường Thượng vài trăm mét. Người dân vùng này “căm thù” cây cột đá ấy nên hò nhau đẩy đổ. Vì nó nặng quá chứ không thì họ cũng khiêng ném xuống sông xuống suối rồi. Vận chuyển nó về Bảo tàng Hà Giang được cũng là cả một vấn đề. Đó là một tảng đá nguyên khối, cao 1,90m, đường kính 60 cm. Thật may là họ gặp một đội xây lắp đang dựng cột điện ở đây. Bảo tàng đã thuê phương tiện của họ, dùng cẩu ba lăng kéo lê từng mét, qua mấy khúc suối mới đưa được cây cột đá ra đường ôtô.
Thế rồi cũng phải loay hoay đến ngót một ngày, nhờ đủ các “chuyên gia” chằng buộc cẩn thận thì “nó” mới được đưa về an toàn. Ở vùng cao này, xe ôtô đi được qua Cổng trời đã là một kỹ nghệ tuyệt đỉnh của các bác tài già, vậy mà còn chở cây cột đá thì phải có nghề lắm. “Nó” chỉ cần nhúc nhích thì cả người và xe mất hút dưới vực thẳm ngay lập tức.
Câu chuyện được truyền từ đời này sang đời khác, rằng xưa kia thổ ty Sùng Chúa Đà là một người rất khôn ngoan và khỏe mạnh. Trong một tiệc rượu, trai bản thách nhau ai nhảy qua được một cái khe sâu thì sẽ được bầu làm thổ ty. Không ngờ Sùng Chúa Đà nhảy thật. Không phải là nhảy mà là bay vù một cái đã sang bờ bên kia. Trai tráng kinh ngạc, đành phải giữ lời hứa, bầu ông ta là chúa đất. Trong tiếng Mông, Sùng Chúa Đà được hiểu là ông chủ vui tính. Nghĩa là từ một trò thách đố vui mà thành thật.
Tuy nhiên, lại có truyền thuyết nói rằng, Sùng Chúa Đà là một phù thủy, cú nhảy qua khe sâu của ông ta cũng là nhờ phép thuật mà thành. Sùng Chúa Đà còn từng biểu diễn màn ngậm súng kíp. Người hầu nhồi đầy thuốc nổ vào súng kíp để ông ta ngậm vào nóng súng, sau đó một người châm lưa vào ngòi nổ. Súng nổ đùng đoàng mà ông ta không bị làm sao. Từ đó, người dân vùng này càng nể sợ Sùng Chúa Đà hơn.
Sùng Chúa Đà cho người đục đẽo cây cột đá để làm phương tiện tra tấn những đôi trai gái yêu nhau, những kẻ vi phạm luật lệ do ông ta đặt ra. Đôi trai gái sẽ phải đứng áp mặt vào cột đá, hai bàn tay luồn qua hai lỗ tròn, và họ cứ phải đứng như thế trong tình trạng không có quần áo trên người. Tuy nắm được tay nhau nhưng họ không thể nhìn thấy mặt nhau. Cứ đứng như thế giữa trời, giữa đêm đông giá rét hay mưa gió bão bùng, người nào khỏe lắm thì trụ được đến ngày thứ ba, không thì chết vì đói khát, làm mồi cho thú dữ, cho kiến đốt hoặc là đối mặt với hàng trăm ngàn mối nguy hiểm khác.
Sùng Chúa Đà bắt họ phải chết một cách đau đớn như thế là vì truyền thuyết kể rằng, Sùng Chúa Đà có khá nhiều vợ, nhưng ông ta yêu nhất bà vợ thứ ba. Một lần phát hiện vợ ngoại tình với một nô bộc trong nhà, Sùng Chúa Đà điên tiết vì bị phản bội và đã cho người đẽo cây cột đá gấp để hành hình đôi “gian phu dâm phụ”.
Cũng có chuyện kể rằng, vì quá yêu người vợ này nên ông ta không bao giờ cho vợ đi chơi. Nhân một hôm ông ta ngủ say, người vợ này đã lén lút trốn đi chợ phiên. Sùng Chúa Đà vác dao ra đầu núi chờ sẵn, đến khi cô này cưỡi ngựa về qua đã bị ông ta chém chết.
Lại có truyền thuyết nói về cái chết của Sùng Chúa Đà như sau: Khi cô vợ bé bị ông ta giết chết, người nhà cô này không những không thù hận mà còn dẫn cô em gái của cô này đến nhà Sùng Chúa Đà, ngỏ ý được thay thế cô chị. Chúa đất đồng ý nhưng không ngờ đã bị rơi vào cạm bẫy của gia đình cô vợ bé. Khi tiệc cưới đang diễn ra thì có một nhóm người mang theo dao thớt đến nhà Sùng Chúa Đà, nói rằng do bên nhà vợ cử sang để làm cỗ, vì người Mông nấu cỗ không ngon. Sùng Chúa Đà mất cảnh giác đã bị chính nhóm người này dùng dao chém chết.
Đến nay, người Mông nơi đây vẫn tin rằng, oan hồn những người chết do bị hành hình ở cây cột đá này vẫn lẩn khuất, vì thế trai gái yêu nhau đi qua cây cột này sẽ nhanh chóng bỏ nhau, trâu bò có thai đi qua là bị trụy thai, thậm chí người khỏe mạnh đi qua về nhà bị ốm hàng tuần liền… Giờ thì cây cột đá đã được đưa vào khuôn viên Bảo tàng tỉnh Hà Giang./.
Theo Công an thành phố Hồ Chí Minh
Đường Thượng là một thung lũng kéo dài khoảng 6km thì bị chắn bởi một dãy núi, nếu vượt qua dãy núi này thì sẽ đi sang thung lũng phía Lũng Tám của huyện Yên Minh, nơi có làng sản xuất lanh mà tôi đã vào thăm.
Giờ đây, màu xanh trù phú đến bất ngờ là hình ảnh đầu tiên đập vào mắt tôi. Đường Thượng có vẻ là 1 xã hoàn toàn của người Mông, khi bước chân vào thung lũng, tôi tự hỏi ngày xưa, liệu người Mông có phải trả giá bằng máu để có được thung lũng đẹp đẽ và trù phú giữa vùng núi đá khô cằn nơi đây hay không????.
Thung lũng này, vài chục năm trở về trước là những nương anh túc bạt ngàn.
Giờ đây, toàn bộ thung lũng được phủ một màu xanh của ngô
Nhà của người Mông nơi đây rất ngăn nắp và rộng rãi
Con đường trung tâm được đổ bê tông phẳng phiu và sạch sẽ
Ngô được trồng lẫn với đỗ tương để cải tạo đất và cây lanh
bái phục Bác quá
Trả lờiXóachiếc cầu này mà bác dám qua, em lạy bác quá
Trả lờiXóa